Thứ Tư, 9 tháng 10, 2024

NHÂN QUYỀN: QUYỀN THIÊNG LIÊNG CƠ BẢN CỦA CON NGƯỜI

 

Nhân quyền là một trong những vấn đề được cả thế giới quan tâm và tôn trọng, rất nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam luôn đề cao nhân quyền và được ghi nhận trong Hiến chương Liên Hợp Quốc cũng như Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Vậy trước tiên chúng ta phải hiểu nhân quyền là gì, ta có thể hiểu đơn giản nhân quyền là các quyền cơ bản của con người từ khi sinh ra như quyền sống, quyền tự do, quyền tín ngưỡng tôn giáo. Tại bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1788 cũng như tuyên ngôn nhân quyền nước Pháp 1799 và chắc hẳn trong chúng ta không ai quên bản tuyên ngôn độc lập 1945 của chủ tịch Hồ Chí Minh tại quảng trường Ba Đình lịch sử đã nêu rõ :Mọi công dân đều có quyền sống, quyền tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc” Đó là các quyền cơ bản thiêng liêng không ai có thể xâm phạm được. Từ khi Nhà nước Việt Nam được khai sinh, Đảng và Nhà nước ta hiện luôn đảm bảo cho mọi công dân được hưởng những gì được xem là tiến bộ của nhân loại nhưng phù hợp với các giá trị cốt lõi của dân tộc Việt Nam. Mặc dù các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước luôn giao giảng trên các kênh phản động và với thế giới rằng Việt Nam vi phạm dân chủ nhân quyền, đàn áp tín ngưỡng tôn giáo. Tuy nhiên, bằng cả lý luận và thực tiễn có thể khẳng định rằng Nhà nước Việt Nam luôn đảm bảo một cách tốt nhất quyền dân chủ.

Thứ nhất, có thể thấy rằng trong tất cả các văn bản pháp lý của nước ta bao gồm cả Hiến pháp là văn bản pháp lý cao nhất của Nhà nước, các chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước đều hướng đến vì nhân dân nhằm đảm bảo quyền công dân. Một trong các quyền cơ bản đó là quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo. Quyền tự do tín ngưỡng của công dân không chỉ thể hiện trong văn bản pháp quy có giá trị cao nhất mà Đảng ta đã dành những sự ưu ái, tin tưởng đặc biệt đối với đồng bào, nhân sỹ, trí thức là người các tôn giáo thể hiện trong thành phần nội các Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc bấy giờ (có nhiều vị Bộ trưởng, Cố vấn của Chính phủ là người theo các tôn giáo).

Đến bản Hiến pháp năm 1959, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được tái khẳng định và cụ thể hóa, tại Điều 26 quy định: “Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”.Trong bản Hiến pháp này, quyền tự do tín ngưỡng đã được mở rộng theo hướng công dân được “theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Điều này cho thấy tự do tín ngưỡng không chỉ là quyền theo tôn giáo mà còn có cả quyền không theo tôn giáo. Quy định như vậy thể hiện một cách nhìn toàn diện và đầy đủ hơn những quan hệ xã hội, một mặt là sự mở rộng hơn, làm sâu sắc thêm quyền đó; Mặt khác, là cơ sở pháp lý nhằm bảo vệ quyền của những người không có đạo, phòng ngừa trường hợp có người vì những lý do nào đó họ bị ép buộc theo một tôn giáo nào đó. Điều này cũng tạo ra sự bình đẳng, đoàn kết giữa người có đạo với người không có tín ngưỡng trong khối Đại đoàn kết dân tộc.

Kế thừa và phát triển Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959; Hiến pháp năm 1980, tại Điều 68 đã ghi nhận: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.

Qua đó cho thấy, quyền tự do tín ngưỡng tiếp tục được khẳng định. Ở đây, quyền tự do tín ngưỡng bao gồm cả nội dung phòng ngừa hành vi lợi dụng quyền này để chống phá cách mạng, đồng thời quy định này làm rõ căn cứ để nhận diện hoạt động lợi dụng tôn giáo, đó là những hoạt động vi phạm pháp luật, chính sách của Nhà nước, tuyên truyền mê tín dị đoan cũng như các hủ tục lạc hậu nhằm mưu cầu cá nhân, phá hoại thành quả cách mạng.

Hiến pháp 1992, bản Hiến pháp ra đời sau khi Đảng ta bắt tay vào công cuộc đổi mới (Đại hội VI, năm 1986), tại Điều 70, Chương V hiến định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.

Như vậy, Nhà nước ta tiếp tục khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, thể hiện về tính chất cũng như ý nghĩa quan trọng của tôn giáo trong đời sống xã hội, quyền tự do tín ngưỡng đã được Nhà nước quan tâm và khẳng định đầy đủ phù hợp với xu thế phát triển của xã hội dân chủ và tiến bộ.

Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện; nhằm đáp ứng, phù hợp với yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới, ngày 28/11/2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 2013 (có hiệu lực từ 01/01/2014), gồm 11 chương, 120 điều. Hiến pháp 2013 có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến; bố cục hợp lý, chặt chẽ và khoa học, bảo đảm các quy định của Hiến pháp đúng tầm là đạo luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất, có tính ổn định lâu dài; Quy định bao quát các quyền cơ bản về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa của con người; Theo đó, điểm đổi mới quan trọng là thể hiện quan điểm nhất quán về vấn đề quyền và nghĩa vụ con người.

Hiến pháp 2013, tiếp tục khẳng định quyền con người là quyền tự nhiên, Nhà nước phải thừa nhận, tôn trọng và cam kết bảo đảm, bảo vệ quyền con người đúng như những công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Trong khi đó, quyền tự do tín ngưỡng, tôn sắc theo hướng ngày càng hoàn thiện, dân chủ, tôn trọng, tạo điều kiện tốt nhất cho tín đồ các tôn giáo và tổ chức tôn giáo hoạt động một cách lành mạnh và công bằng nhất. Tại Điều 24, Chương II quy định:

1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.

2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.

Có thể thấy rằng, so với các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp 2013 là một bước tiến quan trọng, một sự kế thừa và phát triển trong thời kỳ đất nước ta "Đổi mới và hội nhập sâu" với thế giới. Theo đó, Hiến pháp 2013 cho thấy thái độ cũng như chính sách dân chủ của Nhà nước ta đối với quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, coi đó là một nhu cầu và là một quyền tất yếu của người dân cần phải được tôn trọng, bảo vệ và tạo điều kiện để họ thực hiện tốt nhất quyền đó.

Đồng thời, ở đây dùng khái niệm “mọi người” chứ không phải là “công dân” như các bản Hiến pháp trước đây. Bản chất của vấn đề đã có sự thay đổi căn bản, điều đó thể hiện chính xác quyền con người đối với vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Khái niệm “công dân” là thể hiện mối quan hệ giữa người dân với Nhà nước, với thể chế chính trị. Nhà nước ta là Nhà nước thế tục, nghĩa là Nhà nước phi tôn giáo, khẳng định quyền tự do tôn giáo và nguyên tắc tách biệt giữa Nhà nước và Giáo hội, không can thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo. Vì thế, khi ghi nhận “mọi người” sẽ bao trùm rộng hơn so với “công dân” vì trong thực tế không phải ai cũng có quyền công dân. Ví dụ, một người tù, mặc dù đã mất quyền công dẫn nhưng vẫn có quyền tự do thờ phụng, thực hành tôn giáo của mình... Việc ghi nhận “mọi người” có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc và trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Có thể nói, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện tinh thần đổi mới và thể hiện được ý Đảng, lòng dân, phản ánh được nguyện vọng của đại đa số nhân dân, thể hiện tinh thần dân chủ, đổi mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, trong đó chế định liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo có một vai trò, vị trí quan trọng. Quan điểm trước sau như một, tôn trọng để quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của mọi người, đi liền với củng cố khối đoàn kết toàn dân, vừa bảo đảm được lợi íchs của dân tộc và Tổ quốc, vừa không làm ảnh hưởng đến tình cảm tôn giáo - một hình thái ý thức xã hội nhạy cảm và phức tạp. Để thực hiện được điều đó thì rất cần đến một hành lang pháp lý với tư cách là công cụ để nhân dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình.

Tóm lại, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm ý thức được tầm quan trọng của vấn đề này trong sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc. Quán triệt, kế thừa, phát triển quan điểm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Người, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện chủ chương, cơ chế, chính sách, pháp luật về tôn giáo, tạo điều kiện tốt nhất cho Nhân dân thực hành quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình.

Hiến pháp - văn bản có giá trị pháp lý cao nhất qua năm lần ban hành, sửa đổi đều đề cập đến vấn đề quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hướng ngày càng hoàn thiện, dân chủ, tôn trọng, tạo điều kiện tốt nhất cho chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo và tổ chức tôn giáo hợp pháp phát triển một cách lành mạnh và công bằng nhất. Thực hiện tốt quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân có ý nghĩa rất lớn trong việc thực hiện sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu chung là phát triển và bảo vệ Tổ quốc.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

MỘT CHIÊU TRÒ CŨ RÍCH

Mới đây, tổ chức Ân xá quốc tế đã đăng tải thông tin liên quan tới vấn đề hình phạt t.ử hình tại Việt Nam. Theo đó, tổ chức trên cho rằng ...