Nhân quyền là một trong những vấn đề được cả thế giới quan tâm và
tôn trọng, rất nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam luôn đề cao nhân quyền và được
ghi nhận trong Hiến chương Liên Hợp Quốc cũng như Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Vậy trước tiên chúng ta phải hiểu nhân
quyền là gì, ta có thể hiểu đơn giản nhân
quyền là các quyền cơ bản của con người từ khi sinh ra như quyền sống, quyền tự
do, quyền tín ngưỡng tôn giáo. Tại bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1788
cũng như tuyên ngôn nhân quyền nước Pháp 1799 và chắc hẳn trong chúng ta không
ai quên bản tuyên ngôn độc lập 1945 của chủ tịch Hồ Chí Minh tại quảng trường
Ba Đình lịch sử đã nêu rõ :”Mọi công dân
đều có quyền sống, quyền tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc” Đó là các quyền
cơ bản thiêng liêng không ai có thể xâm phạm được. Từ
khi Nhà
nước Việt Nam được khai sinh, Đảng và Nhà
nước ta hiện luôn đảm bảo cho mọi công dân được hưởng những gì được xem là tiến
bộ của nhân loại nhưng phù hợp với các giá trị cốt lõi của dân tộc Việt Nam. Mặc
dù các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước luôn giao giảng trên các
kênh phản động và với thế giới rằng Việt Nam vi phạm dân chủ nhân quyền, đàn áp
tín ngưỡng tôn giáo. Tuy nhiên, bằng cả lý
luận và thực tiễn có thể khẳng định rằng Nhà
nước Việt Nam luôn đảm bảo một cách tốt nhất quyền dân chủ.
Thứ nhất, có thể thấy
rằng trong tất cả các văn bản pháp lý của nước ta bao gồm cả Hiến
pháp là văn bản pháp lý cao nhất của Nhà
nước, các chủ trương đường lối của Đảng, Nhà
nước đều hướng đến vì nhân dân nhằm đảm bảo quyền công dân. Một trong các quyền
cơ bản đó là quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo. Quyền
tự do tín ngưỡng của công dân không chỉ thể hiện trong văn bản pháp quy có giá
trị cao nhất mà Đảng ta đã dành những sự ưu ái, tin tưởng đặc biệt đối với đồng
bào, nhân sỹ, trí thức là người các tôn giáo thể hiện trong thành phần nội các
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc bấy giờ (có nhiều vị Bộ trưởng, Cố vấn
của Chính phủ là người theo các tôn giáo).
Đến bản Hiến pháp năm 1959, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tiếp
tục được tái khẳng định và cụ thể hóa, tại Điều 26 quy định: “Công dân nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn
giáo nào”.Trong bản Hiến pháp này, quyền tự do tín ngưỡng đã được mở rộng theo
hướng công dân được
“theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Điều này cho thấy tự do tín ngưỡng
không chỉ là quyền theo tôn giáo mà còn có cả quyền không theo tôn giáo. Quy định
như vậy thể hiện một cách nhìn toàn diện và đầy đủ hơn những quan hệ xã hội, một
mặt là sự mở rộng hơn, làm sâu sắc thêm quyền đó; Mặt khác, là cơ sở pháp lý nhằm
bảo vệ quyền của những người không có đạo, phòng ngừa trường hợp có người vì những
lý do nào đó họ bị ép buộc theo một tôn giáo nào đó. Điều này cũng tạo ra sự
bình đẳng, đoàn kết giữa người có đạo với người không có tín ngưỡng trong khối
Đại đoàn kết dân tộc.
Kế thừa và phát triển Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959; Hiến
pháp năm 1980, tại Điều 68 đã ghi nhận: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào; không ai được lợi dụng tôn giáo để làm
trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.
Qua đó cho thấy, quyền tự do tín ngưỡng tiếp tục được khẳng định. Ở
đây, quyền tự do tín ngưỡng bao gồm cả nội dung phòng ngừa hành vi lợi dụng quyền
này để chống phá cách mạng, đồng thời quy định này làm rõ căn cứ để nhận diện
hoạt động lợi dụng tôn giáo, đó là những hoạt động vi phạm pháp luật, chính
sách của Nhà nước, tuyên truyền mê tín dị đoan cũng như các hủ tục lạc hậu nhằm
mưu cầu cá nhân, phá hoại thành quả cách mạng.
Hiến pháp 1992, bản Hiến pháp ra đời sau khi Đảng ta bắt tay vào
công cuộc đổi mới (Đại hội VI, năm 1986), tại Điều 70, Chương V hiến định:
“Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn
giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các
tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín
ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và
chính sách của Nhà nước”.
Như vậy, Nhà nước ta tiếp tục khẳng định quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của công dân, thể hiện về tính chất cũng như ý nghĩa quan trọng của
tôn giáo trong đời sống xã hội, quyền tự do tín ngưỡng đã được Nhà nước quan
tâm và khẳng định đầy đủ phù hợp với xu thế phát triển của xã hội dân chủ và tiến
bộ.
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện; nhằm đáp ứng, phù hợp
với yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới, ngày 28/11/2013, Quốc hội đã thông
qua Hiến pháp 2013 (có hiệu lực từ 01/01/2014), gồm 11 chương, 120 điều. Hiến
pháp 2013 có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến; bố cục hợp lý,
chặt chẽ và khoa học, bảo đảm các quy định của Hiến pháp đúng tầm là đạo luật
cơ bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất, có tính ổn định lâu dài; Quy định bao
quát các quyền cơ bản về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa của con người; Theo đó, điểm đổi mới
quan trọng là thể hiện quan điểm nhất quán về vấn đề quyền và nghĩa vụ con người.
Hiến pháp 2013, tiếp tục khẳng định quyền con người là
quyền tự nhiên, Nhà nước phải thừa nhận, tôn trọng và cam kết bảo đảm, bảo vệ
quyền con người đúng như những công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Trong khi đó, quyền tự do tín ngưỡng, tôn sắc theo hướng ngày càng hoàn thiện,
dân chủ, tôn trọng, tạo điều kiện tốt nhất cho tín đồ các tôn giáo và tổ chức
tôn giáo hoạt động một cách lành mạnh và công bằng nhất. Tại Điều 24, Chương II
quy định:
1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo
hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.
Có thể thấy rằng, so với các bản Hiến pháp trước, Hiến
pháp 2013 là một bước tiến quan trọng, một sự kế thừa và phát triển trong thời
kỳ đất nước ta "Đổi mới và hội nhập sâu" với thế giới. Theo đó, Hiến
pháp 2013 cho thấy thái độ cũng như chính sách dân chủ của Nhà nước ta đối với
quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, coi đó là một nhu cầu và là một quyền tất yếu
của người dân cần phải được tôn trọng, bảo vệ và tạo điều kiện để họ thực hiện
tốt nhất quyền đó.
Đồng thời, ở đây dùng khái niệm “mọi người” chứ không phải là “công
dân” như các bản Hiến pháp trước đây. Bản chất của vấn đề đã có sự thay đổi
căn bản, điều đó thể hiện chính xác quyền con người đối với vấn đề tín ngưỡng,
tôn giáo. Khái niệm “công dân” là thể
hiện mối quan hệ giữa người dân với Nhà nước, với thể chế chính trị. Nhà nước
ta là Nhà nước thế tục, nghĩa là Nhà nước phi tôn giáo, khẳng định quyền tự do
tôn giáo và nguyên tắc tách biệt giữa Nhà nước và Giáo hội, không can thiệp vào
công việc nội bộ của các tôn giáo. Vì thế, khi ghi nhận “mọi người” sẽ bao trùm rộng hơn so với “công dân” vì trong thực tế
không phải ai cũng có quyền công dân. Ví dụ, một người tù, mặc dù đã mất quyền
công dẫn nhưng vẫn có quyền tự do thờ phụng, thực hành tôn giáo của mình... Việc
ghi nhận “mọi người” có quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc và
trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Có thể nói, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện tinh thần đổi
mới và thể hiện được ý Đảng, lòng dân, phản ánh được nguyện vọng của đại đa số
nhân dân, thể hiện tinh thần dân chủ, đổi mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong thời kỳ mới, trong đó chế định liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo có một vai trò, vị trí quan trọng. Quan điểm trước sau như một, tôn trọng
để quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của mọi người, đi liền với củng cố
khối đoàn kết toàn dân, vừa bảo đảm được lợi íchs của dân tộc và Tổ quốc, vừa
không làm ảnh hưởng đến tình cảm tôn giáo - một hình thái ý thức xã hội nhạy cảm
và phức tạp. Để thực hiện được điều đó thì rất cần đến một hành lang pháp lý với
tư cách là công cụ để nhân dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
mình.
Tóm lại, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong
những quyền cơ bản của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm ý thức được tầm
quan trọng của vấn đề này trong sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc. Quán triệt, kế
thừa, phát triển quan điểm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Người,
Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện chủ chương, cơ chế, chính sách,
pháp luật về tôn giáo, tạo điều kiện tốt nhất cho Nhân dân thực hành quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo của mình.
Hiến pháp - văn bản có giá trị pháp lý cao nhất qua
năm lần ban hành, sửa đổi đều đề cập đến vấn đề quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo theo hướng ngày càng hoàn thiện, dân chủ, tôn trọng, tạo điều kiện tốt nhất
cho chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo và tổ chức tôn giáo hợp pháp
phát triển một cách lành mạnh và công bằng nhất. Thực hiện tốt quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của người dân có ý nghĩa rất lớn trong việc thực hiện sự nghiệp
đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu chung là phát triển và bảo vệ Tổ quốc.